Gieo chữ, giữ rừng giữa đại ngàn Tây Giang
Ngày đăng: 21/12/2025
Buổi chiều ở làng Arớh (xã Lăng cũ) nay là xã Tây Giang (thành phố Đà Nẵng), sương núi phủ trắng. Từ căn nhà sàn nhỏ nép mình bên gò đồi cao gần suối Nal, tiếng đàn Ân-dzưl vang lên trầm bổng. Già làng Bhơriu Pố ngồi bên bếp lửa, đôi tay khẽ khảy trên cây đàn gỗ cũ. Mỗi tiếng đàn như mang theo hơi thở của núi, của rừng, của những năm tháng gian khó khi người Cơ Tu “ăn củ mài, ngủ với sao trời” giữa Trường Sơn bạt ngàn.

Già Pố bên tác phẩm chạm khắc Chim Nhồng (hay còn gọi là Yểng), đây là loài chim được người Cơ Tu yêu quý

Ánh lửa hắt lên khuôn mặt già đã nhăn nheo theo thời gian, nhưng trong đôi mắt già Pố vẫn ánh lên niềm vui. Ông kể cho tôi nghe câu chuyện đời mình, câu chuyện của một người Cơ Tu dám mơ và dám làm, để từ nghèo khó vươn lên no ấm nhờ cây ba kích tím, được già ví như “của trời” mà Mế rừng Trường Sơn ban tặng cho dân làng.

Sinh ra trong gian khó, từ nhỏ Bhơriu Pố đã mang trong mình khát vọng đi học. Ông bảo: “Học để biết, biết để nói, nói để làm vì cái chung, vì cái chính nghĩa, vì sự phát triển của cộng đồng làng. Người Cơ Tu mà không có chữ thì sẽ lạc giữa chính núi rừng của mình”.

Giữa những năm tháng chiến tranh, khi đường rừng còn hoang vu, cậu bé Pố phải đi bộ cả ngày để đến lớp. Rồi xa làng, xa núi rừng, ra Bắc học tập mấy năm ròng rã, vì thời gian xa cách quá lâu, không có thông tin liên lạc, ngày về lại ngôi nhà sàn thuở còn bé, bố ruột không nhận ra con trai ưu tú của mình đã là tân cử nhân đầu tiên của vùng núi cao Quảng Nam (cũ).

Sau nhiều năm bền bỉ, ông trở thành người Cơ Tu đầu tiên có bằng đại học, niềm tự hào của cả vùng đất huyện Hiên lúc bấy giờ (nay là xã Tây Giang, thành phố Đà Nẵng).

Nhưng thay vì ở lại phố thị, Bhơriu Pố chọn trở về quê nhà, làm giáo viên, quản lý giáo dục, rồi cán bộ xã, Bí thư Đảng ủy nhiều nhiệm kỳ. Ông đem kiến thức đã học truyền lại cho dân làng, dạy cách trồng lúa nước, giữ rừng, và dạy chữ cho trẻ em Cơ Tu.

“Có chữ mà dân mình vẫn đói thì học chưa đủ”, ông cười hiền, rồi châm thêm củi vào bếp. Từ suy nghĩ ấy, ông bắt đầu hành trình thứ hai gieo hạt giống của sự đổi thay.

Ngày ấy, làng Arớh nghèo lắm. Mỗi mùa mưa, dân làng vào rừng đào củ ba kích bán cho thương lái, một gùi đổi được vài ký gạo. Nhìn củ tím quý giá mà bị rẻ rúng, Bhơriu Pố trăn trở: “Nếu rừng cho mình của quý, tại sao mình không học cách cùng rừng mà sống?”.

Ông đề xuất bà con mang cây ba kích về trồng thử. Ai cũng lắc đầu: “Cây rừng đem ra rẫy sống sao được!”.

Nhưng ông không bỏ cuộc. Ông miệt mài nghiên cứu từ sách báo rồi quyết tâm thuyết phục người vợ hiền cùng lặn lội vào rừng sâu lấy dây cây ba kích về để trồng thử nghiệm.

Những ngày đầu, cây chết hàng loạt. Già Pố ghi chép tỉ mỉ từng thay đổi, tìm cách giữ ẩm bằng lá rừng, làm giàn che nắng, dẫn nước suối. Ba năm sau, cây sống khỏe, củ to tím đậm, giá cao gấp mười lần.

Câu chuyện thành công lan khắp vùng. Dân làng làm theo, đồi trọc dần xanh lại. Từ một thử nghiệm nhỏ, Arớh, Pơr-ning, Nal và lan ra cả vùng Tơr-hy (nay là xã Hùng Sơn) trở thành vùng trồng ba kích lớn nhất huyện Tây Giang lúc bấy giờ.

Già Pố chỉ cười: “Nhiều người nói tôi là vua ba kích, tôi đâu có làm vua. Tôi chỉ học được bài học của rừng, ai hiểu rừng thì rừng cho sống”.

Giờ đây, cứ đến mùa thu hoạch ba kích tím, khắp núi rừng Tây Giang lại rộn rã tiếng cười cùng đồi núi. Những mái nhà sàn khang trang, những con đường bê tông sạch sẽ, những nụ cười rạng rỡ.

Nhiều hợp tác xã về cây dược liệu bản địa trong đó có ba kích ở Tây Giang ra đời, sản phẩm được chứng nhận OCOP, xuất bán đi nhiều tỉnh thành.

Nhiều hộ dân thu nhập ổn định, có nhà mới, xe máy, có kinh phí để cho con học đại học, khám chữa bệnh khi ốm đau. Già Pố tự hào nói: “Dân no thì rừng mới yên. Rừng cho mình của ăn, mình trả lại bằng cách giữ rừng”.

Ở Tây Giang hôm nay, rừng được giữ không bằng hàng rào sắt, mà bằng tình yêu máu thịt. Bà con coi rừng như người bạn, người mẹ, người thầy. Mỗi mùa mưa gió, trai làng lại lên núi dọn đường, dựng bảng cấm phá rừng, như một nghi lễ thiêng.

Thành công về kinh tế không khiến già Pố quên điều thiêng liêng nhất: giữ hồn văn hóa.

Ông mở chiếc rương gỗ, bên trong là hàng chục cuốn sổ ghi chép cẩn thận những câu chuyện, phong tục, bài hát, điệu múa của người Cơ Tu. Ông nói chậm rãi, giọng pha chút xúc động: “Nếu tôi không ghi lại, mai này con cháu hỏi, ai còn nhớ nữa? Văn hóa mà mất, thì người Cơ Tu cũng mất”.

Già Pố gọi đó là bản thảo của cuốn Bách khoa thư Cơ Tu tập hợp tri thức dân gian, từ tục lập làng, làm nương rẫy, dựng gươl, lễ hội... đến luật rừng, luật làng và hàng chục bài hát dân ca Ba-boóch, Bhư-noóch, tục ngữ Cơ Tu.

Rất tiếc, không may vụ hỏa hoạn tháng 7/2025 đã thiêu rụi hơn nửa số tài liệu mà ông đã dày công tìm tòi, nghiên cứu hơn 23 năm.

Không bỏ cuộc, ông vẫn miệt mài điền dã, viết để hoàn thiện cuốn Bách khoa thư Cơ Tu, di sản vô giá gửi tặng cho thế hệ mai sau. Với ông, giữ được rừng là giữ được văn hóa, vì văn hóa Cơ Tu sinh ra từ rừng, sống cùng rừng, và trở về với rừng.

Già Pố không chỉ viết mà còn dạy. Mỗi tuần, ông tổ chức lớp nhỏ tại gươl dạy trẻ con chạm khắc gỗ, nói lý - hát lý, thổi tù và, kể về câu chuyện văn hóa. Ông bảo: “Hát để nhớ rừng, nhớ người. Tiếng hát là sợi dây nối người Cơ Tu với tổ tiên”.

Ông còn dạy phụ nữ dệt thổ cẩm truyền thống kết hợp hoa văn mới; hướng dẫn thanh niên làm du lịch cộng đồng, chế biến rượu ba kích chuẩn vị. Ông nói: “Văn hóa không phải để trưng trong tủ kính, mà để sống cùng nó mỗi ngày”.

Giờ đây, du khách đến Tây Giang, về với làng Arớh hay Pơr-ning không chỉ để mua ba kích, mà còn để nghe ông nói về tác phẩm “A-mế ka-koong da-ding - Mẹ rừng” do ông chạm khắc năm 2022.

Từ nguồn cảm hứng và ý tưởng của tác phẩm “Mẹ rừng” đã được Giám đốc sản xuất - Đạo diễn Lê Ngọc Lượng dựng thành bộ phim tài liệu đặc biệt và vinh dự nhận Giải C tại cuộc thi liên hoan phim về Môi trường do Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) tổ chức.

Giờ đây, đã ngoài bảy mươi lăm, già Pố vẫn đều đặn lên nương mỗi sáng. Mùa nắng, ông gùi nước tưới cây; mùa mưa, ông che nương bằng lá rừng. Ông nhớ từng gốc ba kích, từng bãi đất, từng dòng suối. “Cây biết ai thương nó”, ông nói: “nếu mình bỏ mặc, cây buồn, rừng cũng buồn”.

Điều ông trăn trở nhất là chưa kịp in cuốn sách về văn hóa Cơ Tu. Ông mong một ngày, học sinh ở Tây Giang có thể đọc những trang sách do chính người Cơ Tu đầy tâm huyết, sống trách nhiệm với cộng đồng, với rừng thiêng viết để rồi hiểu thêm về lễ hội, tiếng hát, triết lý sống của tộc người mình.

“Tôi già rồi, nhưng cuốn sách phải sống. Nó là tiếng nói của rừng, của làng, của chính mình” - ông nói.

Già làng Bhơriu Pố không chỉ là người gieo mầm no ấm, mà còn là người gieo tri thức và lòng tự hào. Ông là biểu tượng cho thế hệ người Cơ Tu dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám giữ hồn mình giữa cơn gió đổi thay của thời đại.

Câu chuyện của ông cho thấy, phát triển kinh tế và gìn giữ văn hóa không đối lập, mà bổ sung cho nhau. Càng yêu rừng, càng phải biết làm giàu từ rừng; càng học cao, càng phải giữ tiếng nói của dân tộc.

Và giữa tiếng Ân-dzưl (đàn hai dây), Tơr-hoong (sáo thông tình) ngân lên mỗi chiều, người ta vẫn thấy hình ảnh già Pố ngồi bên bếp lửa, mỉm cười hiền lành, ánh mắt xa xăm nhìn về đỉnh núi A-dương, về những vườn sâm ba kích tím. Ở đó, những mầm cây ba kích vẫn đang lớn, như niềm tin của ông vào tương lai của người Cơ Tu, một tương lai no ấm, tự chủ và tràn đầy tự hào.

Rời làng Arớh trong buổi sớm, mây vẫn còn ôm lấy đỉnh núi. Từ xa, tiếng Tơr-hoong của già Pố lại vang lên chậm rãi, dịu dàng mà sâu thẳm. Tiếng sáo ấy như nhịp tim của rừng, như hơi thở của văn hóa Cơ Tu, và như lời nhắn gửi của người đã dành cả đời cho đại ngàn: “Giữ rừng không bằng hàng rào, giữ bằng bếp lửa và tiếng hát của mình”.

PLÊNH PƠLOONG


Tin liên quan

Trang 1 / 167 - 1663 dòngFirstPrevNextLast v
Trang 1 / 167 - 1663 dòngFirstPrevNextLast v
Chung nhan Tin Nhiem Mang